Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Quý I-2014: Trên 16.000 doanh nghiệp giải thể, dừng hoạt động

TTO - Theo Cục Quản lý Đăng ký Kinh doanh, Bộ Kế hoạch Đầu tư, trong tháng 3 - 2014, cả nước có 7.487 doanh nghiệp mới với số vốn đăng ký 35.081 tỷ đồng
Số lương này tăng 87% về số doanh nghiệp và tăng 82,9% về số vốn đăng ký so với tháng 2 - 2014.
Trong khi đó, cũng tháng tháng vừa qua, tổng số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể hoặc đăng ký tạm ngừng hoạt động là 4.358 doanh nghiệp, cũng tăng nhưng ở mức nhẹ là 1,6% (so với tháng 2 năm 2014). Trong đó, số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn là 740 doanh nghiệp, giảm 18,7%; Số doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 2.928 doanh nghiệp, tăng 16,4%; Số doanh nghiệp giải thể là 690 doanh nghiệp, giảm 20%.
Như vậy, tính chung cả quý I-2014, bức tranh tình hình thành lập, giải thể, dừng hoạt động của doanh nghiệp vẫn chưa thực tươi sáng. Bởi theo Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh, ba tháng đầu năm 2014, cả nước có 18.358 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (với số vốn đăng ký 97.983 tỷ đồng, tăng 16,9% về số doanh nghiệp và tăng 23,4% về số vốn đăng ký). Song,  tổng số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động cũng lên tới 16.745 doanh nghiệp, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước.
Số doanh nghiệp gặp khó khăn đã phải ngừng hoạt động nhưng nay quay trở lại hoạt động trong Quý I-2014, theo Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh, đạt 4.622 doanh nghiệp, tăng 48,9% so với quý IV/2013.

C.V.KÌNH

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Mức trợ cấp khi công ty giải thể

Người lao động được hưởng trợ cấp mất việc khi đã làm việc thường xuyên cho doanh nghiệp từ 12 tháng trở lên. Mức trợ cấp là mỗi năm làm việc một tháng tiền lương nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương.

Quy định về trợ cấp mất việc và trợ cấp thôi việc đã được nêu trong Bộ luật Lao động 2012. Tùy trường hợp cụ thể mà doanh nghiệp phải trả một trong hai khoản cho người lao động, cụ thể như sau:
Đối với trợ cấp mất việc, theo Điều 44, doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, công nghệ mà ảnh hưởng đến việc làm của nhiều người lao động hoặc vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc mà doanh nghiệp không thể giải quyết được việc làm mới thì phải trả trợ cấp mất việc làm. Điều kiện để người lao động được hưởng trợ cấp là đã làm việc thường xuyên cho doanh nghiệp từ 12 tháng trở lên. Mức trợ cấp mỗi năm làm việc là một tháng tiền lương nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương.
Đối với trợ cấp thôi việc, theo Điều 48, khi hợp đồng lao động chấm dứt thuộc một trong các trường hợp dưới đây thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương:
- Hết hạn hợp đồng lao động.
- Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.
- Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
- Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của toà án.
- Người lao động chết, bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.
- Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.
- Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Lao động.
- Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Lao động; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã.
Như vậy, với quy định nói trên, khi giải thể doanh nghiệp, người lao động thuộc trường hợp nào thì được hưởng với loại trợ cấp tương ứng.
Ví dụ: tại thời điểm dịch vụ giải thể doanh nghiệp thì hợp đồng lao động của anh A với doanh nghiệp cũng hết hạn thì anh A chỉ được trợ cấp thôi việc mà không được trợ cấp mất việc. Với anh B khi hợp đồng còn hạn (hoặc thuộc một trong các trường hợp thuộc Điều 48 đã liệt kê ở trên) thì anh B được trợ cấp mất việc nhưng không được trợ cấp thôi việc.
Về giải thể doanh nghiệp sau đó thành lập doanh nghiệp mới:
Theo Luật Doanh nghiệp khi doanh nghiệp chuyển đổi sang loại hình doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp mới phải kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được chuyển đổi. Tuy nhiên, với trường hợp bạn nêu thì không thuộc trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp từ công ty cổ phần sang công ty TNHH.
Trường hợp này Công ty TNHH là một pháp nhân mới, hoàn toàn độc lập, không liên quan đến công ty cổ phần, không có nghĩa vụ phải kế thừa quyền và nghĩa vụ của công ty cổ phần. Các quyền và nghĩa vụ của công ty cổ phần khi tiến hành dịch vụ giải thể doanh nghiệp do công ty cổ phần tự thực hiện và chỉ khi thực hiện xong thì mới được cơ quan có thẩm quyền cho phép giải thể.
Do vậy, trường hợp bạn thành lập công ty TNHH và chuyển toàn bộ người lao động sang thì công ty cổ phần cũng vẫn phải thanh toán các khoản trợ cấp (mất việc hoặc thôi việc) cho người lao động. Giữa người lao động và công ty TNHH sẽ xác lập hợp đồng lao động mới với các nội dung do các bên thỏa thuận, không liên quan gì đến hợp đồng đã ký trước đây với công ty cổ phần.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty Luật Bảo An, Hà Nội

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Nhốt phụ lái vào cốp xe để cướp tài sản


Kẻ giang hồ cộm cán xứ Thanh giả khách gửi đồ để khống chế phụ lái nhốt vào cốp, chỉ đạo đồng bọn vây đánh trọng thương tài xế.

Ngày 23/3, Công an thành phố Thanh Hóa tạm giữ hình sự Lê Văn Tuấn (tức Tuấn Như Thanh, 31 tuổi, trú phường Đông Vệ) - nghi phạm gây ra vụ nhốt phụ lái vào cốp xe để cướp đồ.
Khoảng 12h30 ngày 21/3, tại khu vực Cầu Voi (xã Quảng Thắng, TP Thanh Hóa), Tuấn đứng vẫy xe khách do Vũ Văn Thọ (36 tuổi) cầm lái chạy từ huyện Nông Cống đi Hà Nội, ngỏ ý muốn gửi hai thùng xốp chứa đồ.
Khi phụ xe xuống nhận hàng xếp vào khoang, bất ngờ từ phía sau Tuấn khống chế nhốt anh này vào cốp, cướp hơn 6 triệu đồng trong túi.
Từ phía buồng lái quan sát thấy điều bất thường, tài xế Thọ chạy xuống can ngăn liền bị nhiều đồng bọn cua Tuấn từ một ôtô khách khác lao ra hành hung, khiến đa chấn thương.
Theo nhà chức trách, Tuấn được coi là "đại ca" trong giới giang hồ xứ Thanh, từng có nhiều tiền án, tiền sự do tổ chức đánh bạc, đòi nợ thuê...

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

Giải thể, phá sản hơn 400 doanh nghiệp Nhà nước


Các công ty này nằm trong số gần 6.400 đơn vị thuộc diện sắp xếp lại trong năm 2013, theo đề án tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính về tình hình triển khai tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, đến hết năm 2013 đã có 6.376 doanh nghiệp được sắp xếp lại, trong đó có 3.659 doanh nghiệp được cổ phần hóa, 1.022 doanh nghiệp chuyển thành công ty TNHH một thành viên, 380 doanh nghiệp được giao bán và 405 đơn vị bị cho giải thể doanh nghiệp, phá sản (giải thể 313, phá sản 92 doanh nghiệp), số còn lại được sắp xếp theo các hình thức khác như sáp nhập, hợp nhất...
Riêng các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, có 83 trên tổng số 91 đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt, song vẫn còn 8 đơn vị chưa báo cáo đề án gồm Tổng công ty Công nghiệp Dầu thực vật Việt Nam, Tổng công ty Đầu tư phát triển và quản lý dự án hạ tầng giao thông Cửu Long, Tổng công ty Thiết bị y tế, Tổng công ty bưu điện và 4 doanh nghiệp thuộc UBND tỉnh Bình Dương và Hà Nội.
vna-490-9804-1388635561.jpg
Việc cổ phần hóa các đơn vị như Vietnam Airlines đang được dư luận quan tâm. Ảnh: Anh Quân
Qua quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, Bộ Tài chính nhận định tình hình tài chính của doanh nghiệp đã lành mạnh hơn. Cụ thể, trong 3.576 đã sắp xếp, cổ phần hóa gửi báo cáo về Bộ, 85% có doanh thu cao hơn, gần 90% có lợi nhuận tăng trưởng và 86% đóng góp nhiều hơn vào ngân sách Nhà nước. Quyền lợi của lao động các đơn vị phải sắp xếp, cổ phần hóa cũng được lưu tâm. Tính đến 31/3/2013, hơn 170.000 lao động dôi dư được giải quyết chế độ với tổng số tiền hơn 5.600 tỷ đồng, bình quân là 32,7 triệu đồng một người.
Tuy nhiên, việc xây dựng, triển khai đề án tái cơ cấu doanh nghiệp theo ngành, lĩnh vực kinh doanh vẫn còn chậm trễ, dẫn đến tiến độ sắp xếp, cổ phần hoá chưa đáp ứng được yêu cầu. Số doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu Nhà nước trên 51% vẫn chiếm tỷ lệ cao khiến các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước chưa đóng góp được nhiều vào sự phát triển của doanh nghiệp.
Nguyên nhân của tình trạng ỳ ạch này là do một số Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn, Tổng công ty chưa quan tâm đúng mức và quyết liệt triển khai lộ trình tái cơ cấu, không chủ động báo cáo tiến độ triển khai để có những tháo gỡ kịp thời. Ngoài ra, thị trường chứng khoán, bất động sản trầm lắng cũng khiến việc cổ phần hóa, bán cổ phiếu ra công chúng, thoái vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn.
Thời gian tới, Bộ Tài chính cho biết sẽ cùng các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, phấn đấu hoàn thành trong năm 2015. Một trong những giải pháp được đưa ra là sẽ gắn trách nhiệm của người đứng đấu với kết quả tổ chức thực hiện Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp.
Cụ thể, Chủ tịch, Tổng giám đốc Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước hàng quý phải báo cáo tình hình triển khai đề án tái cơ cấu và các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện để xem xét, tháo gỡ kịp thời. Nếu báo cáo chậm trễ, lãnh đạo sẽ bị xác định là không hoàn thành nhiệm vụ.
Ngoài ra, Chính phủ cũng sẽ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về giao, bán, thành lập mới, tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp để tạo cơ sở pháp lý tái cơ cấu các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Đẩy nhanh tiến độ thoái vốn đầu tư ngoài ngành, rà soát chính sách đối với người lao động dôi dư t...
Phương Lin
h

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

Nhìn nhận đúng về giải thể và phá sản DN

Ý kiến  của ThS. Nguyễn Thu Hiền (Đại học Bách khoa TP.HCM)

Giải thể và phá sản là một sự kiện đánh dấu sự kết thúc một quá trình hoạt động kinh doanh, là hệ quả của rất nhiều nguyên nhân khác nhau: rủi ro môi trường kinh doanh, rủi ro thị trường của sản phẩm, thay đổi nhanh chóng của công nghệ, năng lực vốn giới hạn, hoặc đơn thuần là do chiến lược đầu tư của nhà đầu tư dẫn đến việc lựa chọn chiến lược giải thể hoạt động hiện tại để đầu tư vào một hoạt động mới.
Do vậy mặc dù giải thể, phá sản cũng có thể đến từ những nguyên nhân chủ quan khác như năng lực của nhà quản lý, gian lận trong kinh doanh, nhưng việc áp đặt rằng giải thể và phá sản đồng nghĩa với một hiện tượng đáng xấu hổ thì hoàn toàn không đúng đắn.
Tương tự, việc cho rằng nó là một hoạt động kết thúc một quá trình kinh doanh nên không cần gấp rút thực hiện thì lại càng sai. Việc cho phép một doanh nghiệp sớm được giải thể, phá sản, sẽ cho phép tài sản của doanh nghiệp nhanh chóng được bán lại trên thị trường để tiếp tục đưa vào một quá trình kinh doanh khác; nhân công sớm có lời giải về việc chi trả lương, đền bù nghỉ việc, và có điều kiện tìm một công việc mới, tái sử dụng sức lao động; các khoản nợ sớm được thanh toán cho các chủ nợ, đưa vốn trở vào lại chu kỳ xoay vòng vốn của hệ thống tài chính.
Việc tạo điều kiện dễ dàng nhanh chóng cho các doanh nghiệp tuyên bố giải thể, phá sản sẽ giúp rủi ro tiềm năng của nhà đầu tư giảm xuống rất nhiều. Tức là trong trường hợp cần thiết phải giải thể, phá sản, nhà đầu tư có thể tin rằng mình sẽ có được các điều kiện cần thiết, cũng như sẽ được xã hội nhìn nhận đúng đắn khi thực hiện giải thể và phá sản. Khi môi trường đầu tư cho phép nhà đầu tư bãi đầu tư với chi phí và rủi ro thấp, môi trường đầu tư đó sẽ trở nên hấp dẫn hơn, cho phép nhà đầu tư có khả năng linh động cao hơn, mạnh dạn tự tin hơn không chỉ trong các quyết định đầu tư mà cả các quyết định tự giải thể hoặc phá sản. Vậy hoạt động giải thể và phá sản có vai trò quan trọng đáng kể không chỉ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà kể cả trong quá trình cải thiện, tăng sức hấp dẫn của môi trường kinh tế của quốc gia.
Thay đổi nhận thức về hiện tượng giải thể và phá sản của doanh nghiệp không chỉ cần được thể hiện trong luật pháp kinh doanh quốc gia, mà cần được thống nhất trong văn hóa kinh doanh và trong nhận thức đúng đắn của xã hội. Hãy nhìn nhận rằng đó là một hoạt động tất yếu, là động lực cho một sự khởi đầu mới.Cần nhìn nhận đúng về giải thể và phá sản doanh nghiệp
ThS. NGUYỄN THU HIỀN)

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014

Con số về các doanh nghiệp giải thể và ngừng hoạt động trong năm 2013 thật đáng kinh ngạc khi lên tới gần 70.000 doanh nghiệp. Tuy nhiên, thay vì phá sản, giải thể giải pháp tạm ngừng hoạt động lại ít được doanh nghiệp lựa chọn, vì sao thế?

Doanh nghiệp lập kỷ lục về phá sản

Tổng cục Thống kê cung cấp số liệu cho thấy, trong năm 2013 có khoảng 60.737 doanh nghiệp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động, tăng 12% so với năm trước đó. Trong đó, có tới 40.116 doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không đăng ký tăng 8,6% và số doanh nghiệp đã giải thể là 9.818 doanh nghiệp, tăng 4,9%.
So sánh với con số nói trên, thống kê cũng cho thấy, trong năm 2013 chỉ có 10.803 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động. Một con số khá thấp so với số doanh nghiệp “bó tay” chịu chết.
Không chỉ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, ở lĩnh vực Nhà nước kết quả điều tra tại thời điểm 01/01/2013 cũng cho thấy, cả nước có 3135 doanh nghiệp Nhà nước thì kết quả điều tra đối với 2.893 doanh nghiệp cũng có tới 39 doanh nghiệp ngừng hoạt động, chiếm 1,3%, bao gồm 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước và 15 doanh nghiệp vốn nhà nước trên 50%.
Ngoài ra, trong số 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước ngừng hoạt động thì tỷ lệ doanh nghiệp chờ giải thể, phá sản là 41,7%; doanh nghiệp chờ sắp xếp lại là 29,2%, doanh nghiệp ngừng để đầu tư đổi mới công nghệ là 12,5%, còn lại là nguyên nhân khác.
Tìm hiểu về nguyên nhân giải thể, ngừng hoạt động, có tới 56,4% số doanh nghiệp trả lời do sản xuất thua lỗ kéo dài, 5,1% trả lời do năng lực quản lý, điều hành hạn chế và 38,5% trả lời do nguyên nhân khác như thiếu vốn sản xuất kinh doanh, không tìm kiếm được thị trường hoặc đang thuộc diện bán hoặc chờ sắp xếp lại.
Gần 70 nghìn DN giải thể: Vì sao không tạm ngừng hoạt động? - Ảnh 1Hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản khiến hàng triệu lao động thất nghiệp (Ảnh minh họa) 
Việc hàng chục nghìn doanh nghiệp giải thể cũng đã kéo theo con số hàng triệu lao động thất nghiệp.
Theo thông tin từ bà Nguyễn Thị Xuân Mai, vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động, trong năm 2013 cả nước có khoảng 1 triệu người thất nghiệp, trong đó có tới 48% là thành niên từ 15-24 tuổi. Đặc biệt, có khoảng 101.000 sinh viên ra trường năm qua chưa tìm được việc làm, chiếm gần 10% tổng số người thất nghiệp.
Có giải pháp, vì sao không làm? 
Doanh nghiệp giải thể kéo theo lượng lao động thất nghiệp gia tăng và bài toán việc làm là chuyện không phải bàn cãi nhưng điều khiến không ít người quan tâm là tại sao hầu hết các doanh nghiệp chọn con đường phá sản thay vì lựa chọn con đường khác sáng sủa hơn là tạm ngừng hoạt động.
Trong giai đoạn khủng hoảng, thay vì giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp thì tạm ngừng kinh doanh là một giải pháp tốt giúp doanh nghiệp giảm tối đa chi phí, tìm cơ hội mới trong việc tiếp cận các nguồn vốn và hưởng chính sách ưu đãi từ nhà nước.
Tạm ngừng kinh doanh là việc doanh nghiệp tạm thời không thực hiện hoạt động kinh doanh, trong khoảng thời gian không quá 2 năm – nghĩa là doanh nghiệp không được ký kết hợp đồng, không được xuất hóa đơn hay bất kỳ giao dịch nào khác. Sau khi hết thời gian tạm ngừng doanh nghiệp phải hoạt động trở lại, hoặc nếu không hoạt động thì phải giải thể, chuyển nhượng.
Về quy định tạm ngừng hoạt động đối với doanh nghiệp, luật sư của PLF cho biết, “Điều 156 Luật Doanh nghiệp quy định doanh nghiệp có quyền tạm ngừng kinh doanh nhưng phải thông báo bằng văn bản về thời điểm và thời hạn ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế chậm nhất 15 ngày trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh”.
Trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp vẫn phải nộp đủ số thuế còn nợ, tiếp tục thanh toán các khoản nợ, thực hiện hợp đồng đã ký với khách hàng và người lao động (nếu có), trừ trường hợp chủ nợ, khách hàng và người lao động có thỏa thuận khác.
Ngoài ra, trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp không phải nộp thuế môn bài, không kê khai thuế giá trị gia tăng hàng tháng, không nộp báo cáo tài chính cuối năm.
Theo đánh giá của các luật sư PLF thì tạm ngừng hoạt động là giải pháp tối ưu cho doanh nghiệp thời kỳ kinh tế khó khăn vì khi tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp có thể bớt đi nỗi lo về tiền lương cho người lao động, thuế, các khoản chi khác. Nhờ đó, doanh nghiệp tập trung nhân lực và vật lực để giải quyết các khó khăn còn tồn đọng; tìm cách huy động vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước để tái cơ cấu lại doanh nghiệp hoặc cũng có thể “án binh bất động” chờ đợi cơ hội mới tốt hơn.
Khi hội tụ đầy đủ các yếu tố và hết thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động trở lại thủ tục rất đơn giản. Nếu hết thời hạn tạm ngừng hoạt động, doanh nghiệp tự hoạt động trở lại còn nếu sớm hơn thời hạn tạm ngừng thì chỉ cần làm công văn thông báo.
Ngược lại nếu doanh nghiệp cảm thấy gánh nặng của doanh nghiệp quá lớn, không còn cơ hội cải thiện để thoát khỏi khủng hoảng thì nên chọn giải pháp giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp.
Một giải pháp khá đơn giản và mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong năm qua việc chỉ có 10.803 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động trong khi gần 70 nghìn doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động là một đối trọng thiếu cân bằng, một câu hỏi đặt ra cho các doanh nghiệp.
Tuấn Khanh

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động năm nay là 60.737 doanh nghiệp...

 
giai the doanh nghiep

Báo cáo của Tổng cục Thống kê tại buổi họp báo diễn ra sáng nay (ngày 23/12/2013) cho biết: Số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động năm nay là 60.737 doanh nghiệp, tăng 11,9% so với năm trước".

Trong đó, số doanh nghiệp đã giải thể là 9.818 doanh nghiệp, tăng 4,9%; số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10.803 doanh nghiệp, tăng 35,7%; số doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40.116 doanh nghiệp, tăng 8,6%.

Về hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước, theo kết quả điều tra tại thời điểm 1/1/2013 cả nước có 3.135 doanh nghiệp Nhà nước, bao gồm: 405 doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 12,9%; 1.401 doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng, chiếm 44,7% và 1329 doanh nghiệp dịch vụ, chiếm 42,4%.

Kết quả điều tra có 2.893 doanh nghiệp có 2.854 doanh nghiệp thực tế đang hoạt động, chiếm 98,7%; 39 doanh nghiệp ngừng hoạt động, chiếm 1,3%, bao gồm 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước và 15 doanh nghiệp vốn nhà nước trên 50%.

Trong số 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước ngừng hoạt động thì tỷ lệ doanh nghiệp chờ giải thể , phá sản là 41,7%; doanh nghiệp chờ sắp xếp lại là 29,2%, doanh nghiệp ngừng kinh doanh để đầu tư đổi mới công nghệ là 12,5%, còn lại là nguyên nhân khác.

Trong số 15 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 50% ngừng hoạt động, tỷ lệ doanh nghiệp chờ giải thể , phá sản và chờ sắp xếp lại cùng chiếm 40%, còn lại là nguyên nhân khác.

So với năm 2000, số doanh nghiệp Nhà nước tại thời điểm 1/1/2013 bằng 54,4%, giảm 2.624 doanh nghiệp; tổng doanh thu năm 2012 gấp 6,9 lần năm 2000; tổng lợi nhuận trước thuế gấp 9,4 lần.

                                                                                       Khánh Linh
                                                                                 Theo Trí Thức Trẻ

Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014

Chính sách tài chính nhằm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam


BỘ TÀI CHÍNH
(Tài chính) Nhìn lại chặng đường 25 năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam, khu vực doanh nghiệp (DN) có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, góp phần tích cực trong tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, tạo việc làm trực tiếp cho người lao động và hàng triệu việc làm gián tiếp khác, là yếu tố thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, nâng cao phương thức quản lý kinh doanh, tạo động lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong từng ngành... Trong bài viết này, Bộ Tài chính tập trung vào một số chính sách tài chính đã góp phần quan trọng trong việc thu hút ĐTNN ở nước ta thời gian qua.
    Chính sách tài chính nhằm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (*)
    Các doanh nghiệp FDI tiếp tục đóng góp tỷ trọng lớn cho kim ngạch xuất khẩu cả nước. Ảnh: Hải Linh
    Những kết quả nổi bật
    Về chính sách thuế và thu khác
    Về thuế thu nhập DN (TNDN)Trong từng giai đoạn phát triển, Luật Thuế TNDN đã góp phần tạo môi trường pháp lý công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả, khuyến khích và thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, phát huy tốt vai trò định hướng thu hút đầu tư, góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo cơ sở vững chắc cho nền kinh tế phát triển bền vững.
    Sau 25 năm thực hiện, bên cạnh cải cách các chính sách ưu đãi thuế TNDN, việc Quốc hội Việt Nam nhiều lần điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN đã giúp môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên cạnh tranh hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể, mức thuế suất thuế TNDN từ 32% năm 1997 đã giảm xuống còn 28% năm 2003 và tiếp tục giảm còn 25% từ năm 2009.
    - Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 2004: Với mục tiêu đẩy mạnh thu hút vốn ĐTNN, chính sách ưu đãi đầu tư đối với khu vực có vốn ĐTNN đã dành mức ưu đãi cao hơn hẳn cả thuế suất, thời gian miễn thuế, giảm thuế so với khu vực DN có vốn đầu tư trong nước. Cụ thể, đối với khu vực có vốn ĐTNN, tuỳ theo lĩnh vực, địa bàn đầu tư, DN được áp dụng thuế suất ưu đãi 10%, 15% và 20% và miễn, giảm thuế tương ứng, trong đó mức miễn thuế tối đa là 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo.
    - Giai đoạn từ năm 2004 đến nay: Thời kỳ này các nhà ĐTNN được hưởng mức giá dịch vụ đầu vào bình đẳng như các nhà đầu tư trong nước. Việc Quốc hội ban hành Luật thuế TNDN số 09/2003/QH11 ngày 17/6/2003 là một trong những văn bản luật đầu tiên thiết lập chế độ đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa ĐTNN và đầu tư trong nước, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý đáp ứng điều kiện gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), tạo bước tiến mới về cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tạo lập môi trường đầu tư bình đẳng, thuận lợi và hấp dẫn hơn.
    Theo đó, chính sách thuế TNDN quy định tại Luật thuế TNDN số 09/2003/QH11 và các văn bản hướng dẫn đã quy định áp dụng mức thuế suất thuế TNDN và mức ưu đãi miễn thuế, giảm thuế thống nhất cho tất cả các loại hình DN. Đồng thời sau khi Luật thuế TNDN năm 2003 có hiệu lực thi hành thì các quy định về thuế TNDN bổ sung và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đã được bãi bỏ, điều này thể hiện quan điểm nhất quán của Việt Nam trong việc khuyến khích đầu tư kinh doanh của các DN có vốn ĐTNN.
    Tiếp đó, thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và Chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010, ngày 13/6/2008 Quốc hội ban hành Luật Thuế TNDN số 14/2008/QH12 thay thế cho Luật Thuế TNDN số 09/2003/QH11.
    Việc cải cách chính sách ưu đãi thuế tại Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 và các văn bản hướng dẫn thực hiện từ 01/01/2009 đến nay đã tạo sự chuyển biến tích cực trong phân bổ nguồn lực, thu hẹp diện ưu đãi theo ngành, lĩnh vực để khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và tập trung vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm hoặc lĩnh vực xã hội hoá.
    Với các cải cách thuế có tính bước ngoặt nêu trên, giai đoạn từ năm 2004 - 2011 nguồn vốn ĐTNN đã tăng nhanh chóng với 9.500 dự án đầu tư, vốn đăng ký đạt 175 tỷ USD (gấp 3,2 lần giai đoạn 1988-2003), vốn thực hiện đạt 61,8 tỷ USD (gấp 2,3 lần giai đoạn 1988-2003) và đặc biệt từ năm 2007 số vốn ĐTNN thực hiện hàng năm đều đạt xấp xỉ 10 tỷ USD.
    Về thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu
    Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ra đời đã tạo lập khuôn khổ pháp lý trong việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần tạo nên một môi trường đầu tư chung và thuận lợi cho cả các DN trong và ngoài nước.
    Trong 25 năm qua, sự phát triển mạnh của khu vực DN có vốn ĐTNN là một trong những thước đo đánh giá sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt Nam. Ngoài việc góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, việc gia tăng xuất khẩu của khối các DN có vốn ĐTNN, đặc biệt là gia tăng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp của khu vực này là rất đáng kể.
    Một trong các yếu tố góp phần vào việc gia tăng liên tục của khu vực công nghiệp và xuất khẩu của các DN có vốn ĐTNN là chính sách ưu đãi được quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật ĐTNN, và các văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể là:
    - Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và khi xuất trả sản phẩm cho phía nước ngoài được miễn thuế xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài để gia công cho phía Việt Nam được miễn thuế xuất khẩu và khi nhập khẩu trở lại được miễn thuế nhập khẩu trên phần trị giá của hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài để gia công theo hợp đồng.
    - Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa để tạo tài sản cố định đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, lĩnh vực khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; đối với dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA.
    - Miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 05 năm kể từ ngày bắt đầu sản xuất đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để sản xuất của các dự án đầu tư và lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; 
    - Chính sách hoàn thuế nhập khẩu và không thu thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm xuất khẩu được xác định là sản xuất toàn bộ từ nguyên liệu nhập khẩu....
    Việc trở thành thành viên chính thức của WTO cũng như việc tham gia ký kết 7 Hiệp định thương mại tự do trong khu vực ASEAN (ATIGA; ASEAN - Trung quốc; ASEAN - Hàn Quốc; ASEAN- Ấn Độ; ASEAN - ÚC - Niu Dilan; ASEAN - Nhật Bản và Việt Nam - Nhật Bản) đã tạo ra nhiều cơ hội cho các DN trong nước và DN có vốn ĐTNN mở rộng thị phần ra bên ngoài, tham ra sâu hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
    Bên cạnh đó, việc thực hiện cắt giảm thuế quan hàng năm theo các cam kết trong WTO và trong khu vực ASEAN đối với các nguyên liệu, vật tư trong nước chưa sản xuất được đã tạo điều kiện giúp các DN có vốn ĐTNN nói riêng và DN nói chung giảm chi phí đầu vào trong sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước so với hàng nhập khẩu.
    Với chính sách ưu đãi thuế xuất nhập khẩu nêu trên đã và đang củng cố lòng tin cho các DN trong nước và nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và thu hút vốn ĐTNN và công nghệ sản xuất hiện đại vào Việt Nam.
    Hiện nay, mặc dù không còn duy trì chính sách ưu đãi có phân biệt giữa các DN trong nước và các DN có vốn ĐTNN nhưng việc quan tâm, lắng nghe và giải quyết các vướng mắc của các DN có vốn ĐTNN nhanh chóng, hiệu quả thông qua các buổi tọa đàm, đối thoại trực tiếp với các Hiệp hội, DN ĐTNN tại Việt Nam hoặc trả lời trực tiếp bằng văn bản để giải quyết các vướng mắc về thuế trong quá trình điều chỉnh chính sách xuất nhập khẩu, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã đóng góp một cách tích cực vào tăng trưởng kinh tế nói chung và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi tại Việt Nam cho các DN có vốn ĐTNN nói riêng.
    Có thể nói, tạo nên một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn luôn là một mục tiêu mà Chính phủ hướng tới với nỗ lực rất cao vì cải thiện môi trường đầu tư sẽ khuyến khích được các nguồn lực trong và ngoài nước tập trung cho đầu tư, phát triển kinh tế.
    Vì vậy, trong thời gian tới, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu sẽ tiếp tục được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để khắc phục những bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện nhằm tạo nên một hành lang pháp lý minh bạch và thuận tiện hơn rõ ràng hơn nữa, hiệu quả hơn nữa đối với hoạt động xuất nhập khẩu để không những khuyến khích các DN đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, cải thiện tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế
    Về chính sách tài chính đất đai
    Chính sách tài chính đất đai đã được hoàn thiện phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, về cơ bản đã đảm bảo công bằng giữa tổ chức trong nước và tổ chức nước ngoài, cụ thể:
    - Về hình thức sử dụng đất: Luật đất đai 2003 có sự phân biệt về hình thức sử dụng đất giữa DN trong nước và DN nước ngoài. DN nước ngoài được lựa chọn hình thức thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc thuê đất thu tiền thuê đất 1 lần cho cả thời gian thuê. DN trong nước được lựa chọn hình thức giao đất hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm.
    Tuy nhiên, nghĩa vụ tài chính về thu tiền thuê đất trong trường hợp trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê (đối với DN nước ngoài) cũng tương đương với nghĩa vụ tài chính trong trường hợp được giao đất có thu tiền sử dụng đất (đối với DN trong nước).
    - Về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất: Tổ chức trong nước và tổ chức nước ngoài được nhà nước cho thuê đất đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong quá trình sử dụng đất.
    - Về thời hạn thuê đất: Điều 67 Luật đất đai quy định chung về thời hạn cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư là không quá 50 năm, trường hợp đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời hạn không quá 70 năm (không phân biệt là DN trong nước hay DN nước ngoài);
    - Về ưu đãi đầu tư: Các dự án đầu tư được hưởng mức ưu đãi giống nhau nếu dự án đầu tư được thực hiện trên cùng địa bàn ưu đãi đầu tư hoặc có cùng lĩnh vực ưu đãi đầu tư, cụ thể như sau:
    + Được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước đối với toàn bộ dự án: (i) trong thời gian xây dựng theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (ii) Nếu dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được đầu tư tại địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
    + Kể từ ngày dự án hoàn thành đưa vào hoạt động, được miễn: i) 3 năm đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư, tại cơ sở sản xuất kinh doanh mới của tổ chức kinh tế thực hiện di dời theo quy hoạch, di dời do ô nhiễm môi trường. ii) 7 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; iii) 11 năm đối với dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; dự án đầu tư thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; dự án thuộc Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; iv) 15 năm đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
    Về cơ chế chính sách đối với lĩnh vực tài chính khác
    Những năm đầu đổi mới để thu hút các nhà ĐTNN vào Việt Nam tham gia thực hiện đầu tư sản xuất, kinh doanh, pháp luật về đầu tư, về thuế và tài chính khác có quy định chính sách ưu đãi riêng biệt đối với từng khu vực có vốn ĐTNN và khu vực có vốn đầu tư trong nước.
    Tuy nhiên, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế nhanh và bền vững khi Việt Nam gia nhập WTO, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát sinh ngày càng nhiều khó khăn và thách thức, ngành Tài chính đã nỗ lực triển khai thực hiện các cam kết quốc tế và cam kết tài chính nói riêng nhằm đảm bảo việc tuân thủ nghĩa vụ của nước thành viên, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, ban hành kịp thời các cơ chế chính sách tài chính phù hợp, đồng bộ để đảm bảo hiệu lực thực thi và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đề xuất các giải pháp cấp thiết nhằm giảm thiểu rủi ro và bất cập trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
    Theo đó, cùng với các chính sách thuế quan trọng như thuế TNDN, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nêu trên, tại các văn bản thuế, tài chính khác cũng đảm bảo nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo không có sự phân biệt đối xử giữa DN có vốn ĐTNN với DN trong nước.
    Điều này đã và đang liên tục củng cố lòng tin cho các DN trong nước và nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các nhà đầu tư tiềm năng, là dấu hiệu tích cực đối với việc cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, nhằm đạt được mục tiêu thu hút các nguồn lực trong nước và ngoài nước tập trung cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể:
    Đối với dịch vụ bảo hiểm, từng bước thực hiện nghiêm túc các cam kết về:
    - Cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, cho phép thực hiện: Không duy trì hạn chế phân biệt đối xử quốc gia đối với bảo hiểm cho DN có vốn ĐTNN, người nước ngoài làm việc ở Việt Nam; tái bảo hiểm; bảo hiểm vận tải quốc tế; môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm; dịch vụ đánh giá, tư vấn, định phí và giải quyết bồi thường.
    - Không áp dụng hạn chế tiếp cận thị trường hoặc hạn chế phân biệt đối xử quốc gia đối với phương thức cung cấp tiêu dùng ở nước ngoài.
    - Không áp dụng hạn chế phân biệt đối xử quốc gia và xóa bỏ hạn chế về phạm vi kinh doanh bảo hiểm bắt buộc đối với DN bảo hiểm có vốn ĐTNN khi cung cấp dịch vụ; Cho phép mở chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ phù hợp với quy định thận trọng theo phương thức hiện diện thương mại.
    Đối với dịch vụ chứng khoán:
    - Đối với phương thức cung cấp qua biên giới: không áp dụng hạn chế tiếp cận thị trường với dịch vụ cung cấp thông tin tài chính và tư vấn, trung gian và dịch vụ phụ trợ - bảo lưu quyền áp dụng với các dịch vụ khác; bảo lưu quyền áp dụng hạn chế phân biệt đối xử quốc gia.
    - Đối với phương thức tiêu dùng ở nước ngoài không áp dụng hạn chế tiếp cận thị trường hoặc hạn chế phân biệt đối xử quốc gia.
    - Đối với phương thức hiện diện thương mại: Cho phép mở liên doanh 49% vốn nước ngoài; Cho phép thủ tục thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; Cho phép thủ tục thành lập doanh nghiệp chứng khoán nước ngoài cung cấp dịch vụ quản lý tài sản, thanh toán bù trừ, cung cấp thông tin, tư vấn và dịch vụ phụ trợ; Không áp dụng hạn chế phân biệt đối xử quốc gia;
    Đối với dịch vụ kiểm toán, kế toán:
    Nếu như thập kỷ 1991-2000 là thập kỷ hình thành thị trường dịch vụ Kế toán - Kiểm toán, thì thập kỷ 2001 - 2011 là thập kỷ thúc đẩy sự phát triển thị trường dịch vụ Kế toán - Kiểm toán của Việt Nam.
    Trong giai đoạn 2001-2011, lần đầu tiên trong lịch sử kế toán nước ta, Luật Kế toán đã được Quốc hội khoá XI thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2004 đã khẳng định rõ vai trò, nhiệm vụ, nguyên tắc, nội dung kế toán trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập. Đến nay, khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán về cơ bản đã được xây dựng khá đầy đủ, toàn diện và tương đối hoàn thiện, phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường chuyển đổi của Việt Nam như ban hành hệ thống Chuẩn mực kế toán DN (VAS) trên cơ sở các chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IAS và IFRS), ban hành mới các Chế độ kế toán cơ bản áp dụng cho các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân: DN; Hành chính Sự nghiệp; DN Nhỏ và Vừa; Ngân sách và hoạt động nghiệp vụ Kho bạc Nhà nước; Tài chính và Ngân sách xã;… và các Thông tư hướng dẫn thực hiện Chuẩn mực kế toán; …Ngoài ra, cũng xây dựng các Chế độ kế toán đặc thù phù hợp với đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và điều kiện hoạt động của từng ngành, từng lĩnh vực cũng đã được xây dựng…
    Mặt khác, kể từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, các văn bản về kế toán, kiểm toán cũng từng bước được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo mục tiêu thực hiện đúng với cam kết WTO là không áp dụng hạn chế tiếp cận thị trường hoặc hạn chế phân biệt đối xử quốc gia đối với dịch vụ kiểm toán kế toán trên cả 3 phương thức, gồm: qua biên giới, tiêu dùng ở nước ngoài và hiện diện thương mại.
    Một số kiến nghị
    Thứ nhất, để đảm bảo chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đầu tư hiệu quả đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu đặt ra, việc xây dựng các chính sách ưu đãi cần được xem xét trong bối cảnh phát triển kinh tế tổng thể của cả nước. Việc ban hành chính sách mới, trong đó có chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đầu tư cần tuân thủ nghiêm các nguyên tắc, các cam kết mà Việt Nam đã cam kết thực hiện với các tổ chức quốc tế, theo đó mặc dù cần trao đổi và tìm kiếm giải pháp để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn ĐTNN, tuy nhiên việc xây dựng các chính sách ưu đãi cần đảm bảo đúng mục tiêu công bằng và không có sự phân biệt đối xử với các DN có vốn đầu tư trong nước.
    Thứ hai, do tính chất thiếu đồng bộ giữa các hệ thống văn bản pháp luật hiện nay nên nhiều khi quy định về chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đầu tư ngoài việc được quy định tại các văn bản chuyên ngành thì còn có nhiều hệ thống văn bản khác cũng quy định chính sách ưu đãi thuế, tài chính, đầu tư. Vì vậy, để khắc phục tính dàn trải, phức tạp của chính sách ưu đãi thuế đồng thời tăng tính minh bạch của chính sách thuế thì kiến nghị các cơ quan khi xây dựng chính sách: quy định về ưu đãi thuế nên được tập trung trong các văn bản qui phạm pháp luật về thuế, tránh tình trạng qui định ưu đãi thuế được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác như hiện hành (khoa học công nghệ; chuyển giao công nghệ; giáo dục; xã hội hoá;...).
    Thứ ba, về định hướng xây dựng lĩnh vực ưu đãi đầu tư trong thời gian tới, trong thời gian gần đây, khi danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Luật đầu tư chưa được sửa đổi, bổ sung đang diễn ra xu hướng là: trong các chiến lược và chính sách phát triển ngành, lĩnh vực đầu tư đều quy định danh mục địa bàn, lĩnh vực ưu đãi riêng; chính sách ưu đãi đầu tư hiện hành được điều chỉnh bởi rất nhiều văn bản pháp luật. Trong quá trình tham gia phối hợp xây dựng chính sách ngành, lĩnh vực với một số Bộ, ngành, Bộ Tài chính nhận thấy một số văn bản quy định và hướng dẫn chính sách đối với các ngành/lĩnh vực như nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ trợ… cũng đang được nghiên cứu theo hướng xây dựng một danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi riêng. Các quy định này đã và sẽ làm giảm đi vai trò định hướng của chính sách ưu đãi đầu tư chung, đồng thời chưa thể hiện được tính đồng bộ, nhất quán của các chính sách ưu đãi đối với các địa bàn có cùng điều kiện về phát triển kinh tế xã hội.
    Vì vậy, để chính sách ưu đãi đầu tư (về thuế, về tài chính, tín dụng, đất đai ...) thực sự có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo đúng định hướng của Nhà nước trong những năm tới, Bộ Tài chính đề nghị cần rà soát lại toàn bộ hệ thống ngành kinh tế quốc dân và địa bàn cần khuyến khích đầu tư trong cả nước, nghiên cứu để xây dựng một danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư áp dụng chung cho tất cả các ngành/lĩnh vực. Trên cơ sở danh mục này, các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về thuế, tài chính, đất đai, tín dụng ... sẽ quy định cụ thể mức ưu đãi, hình thức ưu đãi, quy trình thủ tục thực hiện ưu đãi mà không quy định thêm lĩnh vực, địa bàn ưu đãi.http://luatsuhanoi.info/tu-van-dau-tu-nuoc-ngoai-19_38.html

    Giải thể, phá sản hơn 400 doanh nghiệp Nhà nước

    Các công ty này nằm trong số gần 6.400 đơn vị thuộc diện sắp xếp lại trong năm 2013, theo đề án tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.
    Theo báo cáo của Bộ Tài chính về tình hình triển khai tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, đến hết năm 2013 đã có 6.376 doanh nghiệp được sắp xếp lại, trong đó có 3.659 doanh nghiệp được cổ phần hóa, 1.022 doanh nghiệp chuyển thành công ty TNHH một thành viên, 380 doanh nghiệp được giao bán và 405 đơn vị bị cho giải thể, phá sản (giải thể 313, phá sản 92 doanh nghiệp), số còn lại được sắp xếp theo các hình thức khác như sáp nhập, hợp nhất...
    Riêng các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước, có 83 trên tổng số 91 đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt, song vẫn còn 8 đơn vị chưa báo cáo đề án gồm Tổng công ty Công nghiệp Dầu thực vật Việt Nam, Tổng công ty Đầu tư phát triển và quản lý dự án hạ tầng giao thông Cửu Long, Tổng công ty Thiết bị y tế, Tổng công ty bưu điện và 4 doanh nghiệp thuộc UBND tỉnh Bình Dương và Hà Nội.
    vna-490-9804-1388635561.jpg
    Việc cổ phần hóa các đơn vị như Vietnam Airlines đang được dư luận quan tâm. Ảnh: Anh Quân
    Qua quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, Bộ Tài chính nhận định tình hình tài chính của doanh nghiệp đã lành mạnh hơn. Cụ thể, trong 3.576 đã sắp xếp, cổ phần hóa gửi báo cáo về Bộ, 85% có doanh thu cao hơn, gần 90% có lợi nhuận tăng trưởng và 86% đóng góp nhiều hơn vào ngân sách Nhà nước. Quyền lợi của lao động các đơn vị phải sắp xếp, cổ phần hóa cũng được lưu tâm. Tính đến 31/3/2013, hơn 170.000 lao động dôi dư được giải quyết chế độ với tổng số tiền hơn 5.600 tỷ đồng, bình quân là 32,7 triệu đồng một người.
    Tuy nhiên, việc xây dựng, triển khai đề án tái cơ cấu doanh nghiệp theo ngành, lĩnh vực kinh doanh vẫn còn chậm trễ, dẫn đến tiến độ sắp xếp, cổ phần hoá chưa đáp ứng được yêu cầu. Số doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu Nhà nước trên 51% vẫn chiếm tỷ lệ cao khiến các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước chưa đóng góp được nhiều vào sự phát triển của doanh nghiệp.
    Nguyên nhân của tình trạng ỳ ạch này là do một số Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn, Tổng công ty chưa quan tâm đúng mức và quyết liệt triển khai lộ trình tái cơ cấu, không chủ động báo cáo tiến độ triển khai để có những tháo gỡ kịp thời. Ngoài ra, thị trường chứng khoán, bất động sản trầm lắng cũng khiến việc cổ phần hóa, bán cổ phiếu ra công chúng, thoái vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn.
    Thời gian tới, Bộ Tài chính cho biết sẽ cùng các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, phấn đấu hoàn thành trong năm 2015. Một trong những giải pháp được đưa ra là sẽ gắn trách nhiệm của người đứng đấu với kết quả tổ chức thực hiện Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp.
    Cụ thể, Chủ tịch, Tổng giám đốc Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước hàng quý phải báo cáo tình hình triển khai đề án tái cơ cấu và các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện để xem xét, tháo gỡ kịp thời. Nếu báo cáo chậm trễ, lãnh đạo sẽ bị xác định là không hoàn thành nhiệm vụ.
    Ngoài ra, Chính phủ cũng sẽ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về giao, bán, thành lập mới, tổ chức lại và giải thể công ty để tạo cơ sở pháp lý tái cơ cấu các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Đẩy nhanh tiến độ thoái vốn đầu tư ngoài ngành, rà soát chính sách đối với người lao động dôi dư t...

    Hơn 60.000 doanh nghiệp VN giải thể hoặc ngừng hoạt động


    TTO - Do sản xuất thua lỗ, năng lực điều hành hạn chế, thiếu vốn sản xuất kinh doanh, không tìm kiếm được thị trường... trong năm 2013 đã có đến 60.737 doanh nghiệp VN giải thể hoặc ngừng hoạt động.

    Cùng với hàng ngàn doanh nghiệp giải thể, phá sản, thị trường mặt bằng cho thuê cũng trở nên u ám. Trong ảnh: một nhà cho thuê nguyên căn tại đường Nguyễn Đình Chiểu, Q.3, TP.HCM - Ảnh: Hoàng Thạch Vân

    Đây là số liệu vừa được Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch Đầu tư công bố.

    Cụ thể, theo Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh, số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động trong năm 2013 lên tới 60.737 doanh nghiệp, tiếp tục tăng 11,9% so với năm 2012.

    Cũng theo báo cáo này, trong năm 2013 số doanh nghiệp đã giải thể là 9.818 doanh nghiệp, tăng 4,9%; số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10.803 doanh nghiệp, tăng 35,7%; số doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40116 doanh nghiệp, tăng 8,6% (so với 2012).

    Về lý do ngừng hoạt động, 56,4% số doanh nghiệp trả lời do sản xuất thua lỗ kéo dài, 5,1% trả lời do năng lực quản lý, điều hành hạn chế và 38,5% trả lời do nguyên nhân khác như thiếu vốn sản xuất kinh doanh, không tìm kiếm được thị trường hoặc đang thuộc diện bán hoặc chờ sắp xếp lại.

    Cũng liên quan đến vấn đề doanh nghiệp, tại cuộc họp báo của Tổng cục Thống kê vừa qua, trả lời câu hỏi của báo chí về thực tế còn bao nhiêu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), ông Phạm Đình Thúy, Vụ trưởng Vụ Thống kê Công nghiệp, Tổng cục Thống kê cho biết: các cơ quan khác tính toán các DNNN mà nhà nước sở hữu 100% vốn thì VN còn khoảng trên 1000 doanh nghiệp. Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê tính toán cả các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước trên 50% thì tại thời điểm 01/01/2013, cả nước còn 3135 DNNN.

    Tổng cục Thống kê cũng nêu luôn kết quả điều tra cho biết hiện có 2854 DNNN thực tế đang hoạt động, chiếm 98,7%; 39 DNNN ngừng hoạt động, chiếm 1,3%, bao gồm 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước và 15 doanh nghiệp vốn nhà nước trên 50%.

    Trong số 24 doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước ngừng hoạt động thì tỷ lệ doanh nghiệp chờ giải thể, phá sản là 41,7%; doanh nghiệp chờ sắp xếp lại là 29,2%, doanh nghiệp ngừng để đầu tư đổi mới công nghệ là 12,5%, còn lại là nguyên nhân khác...

    Như vậy, so với năm 2000, số doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm 01/01/2013 bằng 54,4%, giảm 2624 doanh nghiệp...

    Cũng theo Tổng cục Thống kê, thị phần cung cấp sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của các DNNN cho thị trường trong nước chiếm khoảng 32,2%

                                                                                                                                                 C.V.KÌNH

    Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu vào Việt Nam thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài

    Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu vào Việt Nam thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
    Thứ hai, 06-04-2013 , 00:00:00 - GMT+7
    Theo báo cáo của Chính Phủ tại kì họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII, lạm phát năm 2012 được kiểm soát dưới hai con số, tỷ lệ nhập siêu cũng được kiềm chế dưới 10% kim ngạch xuất khẩu tạo điều kiện để giảm sức ép tỷ giá, cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; tỷ giá VND sẽ được điều chỉnh trong khoảng 5-6%. Đây đều là những dấu hiệu đáng mừng, nhà đầu tư hoàn toàn có quyền tin tưởng vào tương lai tươi sáng đối với kinh tế Việt Nam và mạnh dạn đầu tư lĩnh vực mà mình đã lựa chọn.
    Nhưng việc tiếp cận hành lang pháp lý của Việt Nam trong các lĩnh vực về đầu tư đã gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam thông qua hình thức thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn nước ngoài.
    Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam thông qua hình thức thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn nước ngoài, phải đáp ứng các điệu kiện: có dự án đầu tư được cơ quan nhà nước cho phép đầu tư và bắt buộc phải thành lập doanh nghiệp theo các loại hình doanh nghiệp mà pháp luật Việt Nam đã quy định.
    Dự án đầu tư
    Một số nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam nên chưa nắm hết được các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư của mình, dẫn đến việc đã đầu tư cơ sở hạ tầng, máy móc, nhân lực… nhưng lại không được cấp giấy phép hoạt động. Vì vậy, nhà đầu tư cần lựa chọn dự án đầu tư phù hợp, có những dự án được nhà nước Việt Nam quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ đầu tư, cũng có những dự án bị cấm hoặc đòi hỏi nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện cụ thể.
    Đối với địa bàn đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư tại các điạ bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn sẽ được nhà nước hỗ trợ, ưu đãi tùy theo địa bàn cụ thể; hoặc có thể lựa chọn địa bàn đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế do đây cũng là các địa bàn đầu tư được nhà nước áp dụng nhiều chính sách ưu đãi đầu tư.
    Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoài cũng cần cân nhắc về thời gian thực hiện dự án sao cho thật hợp lý. Luật pháp Việt Nam quy định thời hạn hoạt động của dự án có vốn đầu tư nước ngoài không quá 50 năm; trong trường hợp cần thiết, thời hạn có thể dài hơn nhưng không quá 70 năm.
    Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư
    Như đã đề cập ở trên, nhà tư vấn đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam thông qua hình thức thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn nước ngoài thì bắt buộc phải thành lập các tổ chức kinh tế theo các loại hình doanh nghiệp mà pháp luật Việt Nam đã quy định.
    Các nhà đầu tư nước ngoài được phép lựa chọn các loại hình doanh nghiệp như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Mỗi  loại hình doanh nghiệp sẽ có nhưng ưu điểm và hạn chế riêng, việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp sẽ gắn liền với quyền và nghĩa vụ của các nhà tư vấn đầu tư nước ngoài khi hoạt động tại Việt Nam.
    Tùy theo quy mô vốn và lĩnh vực đầu tư mà nhà đầu tư thực hiện thủ tục đăng kí đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư để được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Đối với những dự án đầu tư có số vốn dưới 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thực hiện thủ tục đăng kí đầu tư. Đối với những dự án đầu tư có điều kiện quy mô vốn từ 300 tỷ đồng trở lên thì thực hiện thủ tục thẩm tra.
    Để thực hiện thủ tục đề nghị Cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhà đầu tư cần chuẩn bị các loại giấy tờ sau: văn bản đăng kí đầu tư; báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư; giấy đề nghị đăng kí kinh doanh; bản sao các giấy tờ chứng thực cá nhân (chứng minh nhân dân, hộ chiếu…); giấy xác nhận vốn pháp định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp (đối với loại hình kinh doanh yêu cầu có vốn pháp định); bản sao chứng chỉ hành nghề của một hoặc một số cá nhân theo Luật định. Thủ tục thẩm tra đầu tư còn đòi hỏi nhà đầu tư phải có văn bản Giải trình kinh tế - kỹ thuật bao gồm các nội dung chủ yếu: mục tiêu, quy mô, địa điểm đầu tư; vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án; nhu cầu sử dụng đất, giải pháp về công nghệ và giải pháp về môi trường. Ngoài những giấy tờ kể trên, tùy vào loại hình doanh nghiệp, cơ cấu vốn, lĩnh vực đầu tư mà nhà đầu tư cần bổ sung các loại giấy tờ khác.
    Để thực hiện việc đăng kí đầu tư có thành lập doanh nghiệp thì yêu cầu nhà đầu tư phải có trụ sở thể hiện trên hồ sơ và tên doanh nghiệp phải hợp lệ.
    Về trụ sở: Trụ sở là địa điểm liên lạc, địa điểm giao dịch của doanh nghiệp; phải có địa chỉ xác định gồm số nhà, tên phố (ngõ phố) hoặc tên xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có).
    Đối với tên doanh nghiệp bao gồm loại hình doanh nghiệp và tên riêng. Ví dụ như công ty trách nhiệm hữu hạn A: loại hình doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn và tên riêng của doanh nghiệp là A. Trước khi đăng ký đặt tên doanh nghiệp, doanh nghiệp tham khảo tên các doanh nghiệp đang hoạt động lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, xem tên doanh nghiệp mà mình dự kiến có bị trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên các doanh nghiệp đã đăng ký hay không. Đồng thời, doanh nghiệp không được sử dụng tên của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang… để đặt tên cho doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó. Ngoài ra, không được sử dụng các từ ngữ, kí hiệu vi phạm thuần phong mỹ tục, đạo đức, lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tên doanh nghiệp phải được đặt bằng tiếng Việt, khi dịch ra tiếng nước ngoài thì phải có nghĩa tương ứng, nếu không thì giữ nguyên. Tên viết tắt của doanh nghiệp được viết tắt từ tên bằng tiếng Việt hoặc tên viết bằng tiếng nước ngoài.
    Cuối cùng, sau khi hoàn tất các giấy tờ cần thiết, nhà đầu tư nộp hồ sơ tại Sở kế hoạch và đầu tư nơi đặt trụ sở chính. Kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra tính hợp lệ và cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư. Đối với thủ tục đăng kí đầu tư, thời hạn cấp giấy chứng nhận đầu tư là 15 ngày làm việc kể từ nhận được hồ sơ hợp lệ. Đối với thủ tục thẩm tra đầu tư, sau khi nhận được hồ sơ hợp lệ, trong thời hạn 20 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư gửi lập báo cáo thẩm tra, trình Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh quyết định. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh xem xét cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong một số trường hợp cần thiết, thời hạn thẩm tra đầu tư có thể kéo dài hơn thông thường nhưng tối đa không quá 45 ngày. Giấy chứng nhận đầu tư  đồng thời là giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.